Bảo hộ chỉ dẫn địa lý: Tăng tỷ lệ người Việt ưu tiên dùng hàng Việt
Qua hơn 14 năm triển khai Cuộc vận động (CVĐ) “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, CVĐ đã có những kết quả tích cực, tuy nhiên để từ nhận thức trở thành thói quen tiêu dùng hằng ngày của người dân khi ưu tiên mua và sử dụng hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam cần những nỗ lực từ cơ chế chính sách đến cách làm của doanh nghiệp. Qua khảo sát tại một số siêu thị như Co.opmart, Vinmart, Hapro… hàng Việt đang chiếm tỷ lệ áp đảo với 90 - 95%. Còn tại hệ thống siêu thị của doanh nghiệp nước ngoài như AEON, Mega Market… hàng Việt Nam cũng chiếm tỷ lệ từ 60 - 96%. Ngoài ra, tại kênh phân phối là các chợ, các cửa hàng tiện lợi, tỷ lệ hàng Việt Nam cũng từ 60% trở lên.
Và theo đánh giá, việc xây dựng và đẩy mạnh bảo hộ chỉ dẫn địa lý là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, tăng tỷ lệ người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Theo ông Trần Lê Hồng - Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, việc xây dựng và bảo hộ sản phẩm bằng chỉ dẫn địa lý ngày càng đóng vai trò quan trọng, giúp gia tăng giá trị hàng hóa Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm Việt Nam, lại đẩy mạnh bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong những năm gần đây. Ngoài lợi ích về mặt kinh tế, việc phát triển chỉ dẫn địa lý còn là một chiến lược hiệu quả để bảo tồn đa dạng sinh học, văn hóa truyền thống, đồng thời góp phần chống gian lận thương mại, bảo đảm lợi ích cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, Việt Nam còn nhiều thách thức trong công tác bảo hộ, quản lý chỉ dẫn địa lý. Ông Mai Văn Dũng nhận định, trong khi xu hướng bảo hộ sản phẩm chế biến gia tăng gần đây thì Việt Nam chưa có nhiều sản phẩm chế biến được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Các sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Việt Nam tập trung chủ yếu vào sản phẩm nông nghiệp với hoa quả chiếm 35% tổng số chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, thủy sản 14%, dược liệu 10%, sản phẩm từ cây công nghiệp 10%, gạo 9%… Quy mô sản xuất, kinh doanh của các sản phẩm được bảo hộ lại nhỏ, chủ yếu cấp xã, huyện (chiếm khoảng 65% chỉ dẫn địa lý được bảo hộ).
Mặt khác, năng lực quản lý và khai thác nhãn hiệu của các chủ thể sản xuất và kinh doanh được trao quyền sử dụng nhãn hiệu cũng có nhiều hạn chế. “Nhiều chủ thể được lựa chọn để trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình nông dân. Các tổ chức kinh tế này gặp nhiều khó khăn trong tổ chức quản lý, vận hành, đa dạng hóa hoạt động tạo thêm giá trị gia tăng, chủ trì xây dựng và điều phối chuỗi giá trị”, ông Mai Văn Dũng cho hay.
Một thách thức nữa trong công tác bảo hộ, quản lý chỉ dẫn địa lý là người tiêu dùng ít có thông tin và chưa có hiểu biết đầy đủ về sản phẩm được bảo hộ, trong khi đây là tác nhân đóng vai trò quyết định đến sự phát triển thị trường tiêu thụ và thương hiệu sản phẩm.
Hà Trang