Về đất “cửi canh” Hồi Quan
Báu vật truyền thống của vùng quê Kinh Bắc
Đất Hồi quan tự hào có dòng sông Tiêu Tương thơ mộng chảy qua một thời, tuy nhiên ngày nay dòng sông xưa đã thành ruộng, thành đường của xã Tương Giang, người dân vẫn nghe văng vẳng tiếng sáo Trương Chi trong hoài niệm gợi lại mối tình giữa chàng với nàng Mỵ Nương qua câu ai oán.
” Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”
Ẩn sau luỹ tre làng là một báu vật truyền thống đến nay vẫn còn được gìn giữ và phát triển, đó chính là nghề dệt Hồi Quan. Cách dệt ở Hồi Quan rất lạ, ngay từ khâu chuẩn bị sợi đã lắm công phu. Người ta nối một đầu sợi với guồng rồi quay đều tay thành các cuộn sợi. Từ các cuộn sợi ấy, người thợ dùng chày đập trong 15 phút cho sợi mềm ra rồi ngâm vào nước. Sau hai ngày, họ đem cuộn sợi ra vò với cơm chín rồi đem phơi. Sau khi sợi khô sẽ được ngâm với dầu tây, mỡ lợn rồi đem vào đánh ống.
Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, nghề dệt có từ bao giờ và do ai truyền lại đến nay vẫn là một câu hỏi, chỉ biết rằng, từ lâu lắm rồi người làng Hồi Quan rất thạo nghề canh cửi. Trước cách mạng tháng 8, hầu như nhà nào cũng có một khung cửi, nhà nhiều có tới 5 - 6 khung và phải thuê thợ đến làm. Sản phẩm chính của làng nghề này là vải khổ hẹp (40cm), vải màn, đũi, khăn mặt…
Với nghề dệt, làng xóm quanh năm nhộn nhịp, rộn tiếng thoi đưa, mọi người sống chan hoà vì nhau hơn. Từ sáng đến tối nhân lực được huy động tối đa cho sản xuất, mỗi người một việc, năng động, nhiệt tình, khéo léo và cần cù, vợ ngồi dệt vải hay ra chợ bán, chồng thì mắc, kẹo, đậu; người già, trẻ nhỏ thì quay ống, đến khi màn đêm buông xuống cả nhà mới ngưng tay,
Ban đầu, người dân Hồi Quan dệt vải bằng những khung cửi truyền thống, dệt khổ nhỏ với phương pháp thủ công để dệt vải màn, đũi, vải dày, vải màu kẻ đổ dọc, vải tơ tằm... Với tính cần cù, chịu khó cộng với đôi bàn tay khéo léo, người dân trong làng đã làm ra những sản phẩm dệt độc đáo mang sắc thái riêng, phục vụ nhu cầu của người dân trong vùng và các tỉnh lân cận.
Từ xa xưa, người Hồi Quan, Tương Giang (Thành phố Từ Sơn) đã có tục con gái đến tuổi trưởng thành, ai cũng đều phải biết được các công đoạn từ lúc có con sợi, mộc, cho đến khi là ra vuông vải bông khổ hẹp, hay tấm lụa tơ tằm để đem đi bán ở các chợ phiên quanh vùng. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ở miền Bắc, làng nghề vẫn được duy trì và đem lại nguồn thu nhập đáng kể là động lực giúp người dân Hồi Quan đánh đuổi giặc xâm lược.
Sau năm 1954, khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nghề dệt được mở rộng và kỹ thuật dệt cũng được cải tiến. Phát triển hưng thịnh nhất là vào những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước và trở thành một trong những điển hình về phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp của tỉnh Hà Bắc (cũ).
Bước vào thời kỳ đổi mới, bằng sự năng động, sáng tạo, người dân trong làng phát triển thêm với các khung dệt khổ rộng kết hợp khung sử dụng máy công nghiệp để dệt các mặt hàng như: Gạc y tế, khăn trẻ sơ sinh, vải khổ rộng, sợi xe cung cấp cho nhà máy sản xuất giày dép, khăn mặt… Đồng thời, mở rộng thêm nghề dệt mành tăm và gia công quần áo trẻ em, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia…
Phát triển nghề truyền thống để thích ứng với thị trường
Để phát triển nghề truyền thống, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm dệt Hồi Quan, đồng thời giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động nông thôn, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, Hồi Quan đã quy hoạch hơn 4 ha đất xây dựng cụm làng nghề dệt tập trung với 15 cơ sở dệt may với quy mô cơ sở nhỏ nhất là 20 máy dệt và lớn nhất là 50 máy.
Với quyết tâm không để mai một nghề dệt truyền thống, chính quyền và người dân Tương Giang đã xác định: Đi đôi với việc phát triển các ngành nghề mới có thu nhập cao không ảnh hưởng đến môi trường, tạo cho kinh tế của xã phát triển bền vững, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, thì cần phải gìn giữ và phát triển nghề dệt truyền thống để vừa tạo thêm nguồn thu nhập cho người dân, đồng thời bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của làng nghề.
Dưới sự chỉ đạo, tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, khuyến khích của chính quyền, những người tâm huyết với nghề dệt quê hương đã tập trung tìm kiếm thị trường, đầu tư kinh phí đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô, liên kết sản xuất, thành lập tổ hợp sản xuất, rồi đến các công ty sản xuất và bao tiêu sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng. Chính vì vậy, nghề dệt của địa phương dần được khôi phục với diện mạo mới, các dây chuyền sản xuất hiện đại đã hiện hữu về làng thay thế những cỗ máy dệt lạc hậu, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của người dân cùng sự quan tâm, hỗ trợ tạo điều kiện của chính quyền các cấp tạo tiền đề để làng nghề dệt Hồi Quan vững tin trên đường hội nhập, phát triển. Đồng thời, đóng góp chung vào bức tranh đa sắc màu về các làng nghề truyền thống trên vùng quê Kinh Bắc – Bắc Ninh.
Viết Sơn