Phát triển điện khí ở Việt Nam: Cơ hội và Thách thức
Trong những năm gần đây, khi mà những biến đổi khí hậu ảnh hưởng rõ nét tới môi trường sống trên trái đất thì nguồn phát thải ô nhiễm đã được chú ý giảm thiểu, việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch truyền thống (than đá, dầu thô) ngày một hạn chế. Con người đang hướng tới sử dụng những dạng nhiên liệu bền hơn, sạch hơn, ít gây ô nhiễm môi trường sống hơn. Việc đưa vào sử dụng và phát triển LNG tại Việt Nam đã và đang còn nhiều cơ hội cho ngành năng lượng Việt Nam, song thực tế còn nhiều khó khăn, trở ngại để đưa vấn đề này trở thành hiện thực. Chính phủ và các cơ quan chức năng đã nhận thức rõ tầm quan trọng của LNG trong bối cảnh phát triển năng lượng gắn liền với bảo vệ môi trường.
Để phát triển ngành điện khí, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cho rằng: “Nhà nước phải có các biện pháp khuyến khích hoặc các biện pháp bảo hộ cần thiết. Thứ hai, trong giai đoạn đầu phải có hỗ trợ từ Nhà nước. Chẳng hạn như hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ về cơ chế chính sách, làm sao chi phí cho ngành điện khí giảm đi. Thứ ba, cần tạo ra thị trường cạnh tranh trên cơ sở đó có nhiều thành phần tham gia thị trường. Đó là động lực cho thị trường phát triển. Nhìn xa hơn nữa tiềm năng của ngành điện khí rất lớn, chúng ta có thể nghĩ đến xu hướng quốc tế. Do đó có thể hỗ trợ các doanh nghiệp lớn của ngành điện khí Việt Nam tiến hành đầu tư vào các mỏ khí, phát triển điện khí ở các nước khác”.
Một trong những mục định hướng phát triển điện lực quốc gia là khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng hóa thạch trong nước kết hợp với nhập khẩu các nguồn số lượng nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhiệt điện than, ưu tiên phát triển điện khí trong nước, phát triển các nguồn điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu với quy mô phù hợp. Cơ cấu nguồn định hướng đến năm 2030 nhiệt điện khí trong nước đạt 14.930 megawatt (MW), chiếm 9,9 %, nhiệt điện khí thiên nhiên hóa lỏng và 22.400 megawatt (MW) đạt 14,9 %.
Tại Hội thảo, TS. Nguyễn Minh Phong cũng đưa ra một số giải pháp thu hút đầu tư phát triển điện khí hiện nay. Đó là, Việt Nam cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý (nhất là các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về kỹ thuật, thương mại, tài chính...) làm cơ sở để đầu tư xây dựng kho cảng LNG mới, hiện đại, theo tiêu chuẩn quốc tế; Cần đẩy nhanh nghiên cứu, đánh giá tính khả thi và triển khai nâng công suất/đầu tư mới các dự án kho cảng LNG để kịp thời đáp ứng nhu cầu nhiên liệu cho phát điện theo Quy hoạch; Bộ Công Thương cần xây dựng và ban hành khung giá phát điện cho các nhà máy điện khí LNG; xây dựng kế hoạch cam kết tổng sản lượng điện mua hàng năm từ phía EVN và bao tiêu sản lượng khí hàng năm là cơ sở để các ngân hàng xem xét cấp tín dụng cho dự án, cũng như dự án mua được nguồn LNG giá tốt thông qua hợp đồng mua LNG dài hạn để giá điện rẻ hơn…
Tại Hội thảo, các chuyên gia đã đưa ra những phân tích, nhận định và đánh giá tổng quan tiến trình phát triển điện khí nói riêng và phát triển năng lượng xanh, sạch và bền vững tại Việt Nam nói chung hiện nay. Hộ thảo cũng nêu lên thực trạng, những cơ hội cũng như thách thức trong quá trình xây dựng hệ thống cơ chế chính sách phát triển điện khí tại Việt Nam,từ đó có những kiến nghị, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền chức năng nhằm tạo môi trường pháp lý đồng bộ, thu hút đầu tư vào các dự án điện khí. Đồng thời thực hiện các cam kết quốc tế về chuyển dịch năng lượng, giảm phát thải carbon, chiến lược và tầm nhìn của Việt Nam đối với việc đẩy mạnh phát triển điện khí trong trung và dài hạn đã có những thay đổi đáng kể so với giai đoạn trước theo hướng ngày càng chú trọng đến việc phát triển năng lượng tái tạo và các dạng năng lượng mới đi kịp với xu thế phát triển công nghệ trên thế giới.
PV