"Bắt bệnh" lý do khiến ô tô bị ì máy, động cơ yếu

(SHTT) - Sau thời gian sử dụng, nhiều xe ô tô sẽ có dấu hiệu ì ạch, yếu đi rất nhiều. Theo các chuyên gia ô tô, xe chạy không bốc, ì máy có thể do những nguyên nhân sau.

Do áp xăng

 

Áp xăng có nhiệm vụ giữ cho sự chênh lệch áp suất của xăng trong ống phân phối và của không khí bên trong cổ hút luôn ở một giá trị không đổi. Khi đó ECU điều khiển kim phun mở ở một thời gian nào đó sẽ phun ra một lượng xăng giống như ECU "tính toán". Nếu sự chênh lệch áp suất khác đi (do van điều áp hỏng) thì khi mở kim cũng ở thời gian đó nhưng lượng xăng phun ra sẽ khác với tính toán.

Điều này sẽ gây ra thừa hoặc thiếu xăng khiến động cơ hoạt động không ổn định, có thể yếu đi trông thấy.

Lọc gió bẩn, cung cấp gió không đều

Việc thường xuyên phải chạy xe không thể tránh khỏi những tác động lớn đến việc tắc nghẽn của lọc gió. Nhiều chủ xe thường không chú ý vào việc này nên khi để quá lâu sẽ khiến  lượng không khí nạp vào không đủ để tạo thành một hỗn hợp hòa khí chuẩn gây ảnh hưởng rất lớn đến động cơ.Theo các chuyên gia, đối với tất cả những loại lọc gió ô tô, nên có thời gian vệ sinh định kỳ là khoảng 5.000km và thời gian thay thế của chúng không quá 20.000 km/ lần.

 

Bơm xăng mòn hoặc bộ điều chỉnh áp suất rò rỉ

ECU kiểm soát lượng xăng theo thời gian đóng mở kim phun. Áp suất nhiên liệu trong hệ thống được duy trì ổn định trong khoảng 2,0-5,8 atm nhờ bơm xăng làm việc liên tục và bộ điều chỉnh. Áp suất thấp làm giảm lượng xăng cấp vào buồng đốt.

Bơm nhiên liệu rất khó hỏng, tuổi thọ trung bình lên tới 6 năm và thường bị thay oan. Khi thay lọc xăng, áp suất phun vẫn thấp, một số gara thường quy cho bơm bị lỗi và đưa ra quyết định thay mới. Thực tế nhiều trường hợp lại do bộ điều áp rò rỉ hoặc bị két, xăng hồi về bình chứa không tạo ra áp suất.

Áp suất phun đảm bảo nhưng lượng xăng vào buồng đốt vẫn có thể thấp hơn yêu cầu. Nguyên nhân là do cảm biến lưu lượng không khí (MAF) hoặc cảm biến áp suất không khí tuyệt đối (MAP) phản ứng chậm, truyền tín hiệu sai, ECU điều khiển thời gian mở kim phun ngắn.

Bubi bị ăn mòn

Trước khi cháy, có nghĩa là ở thời điểm cuối kỳ nén, nhiên liệu được nén lên đỉnh điểm và bugi bắt đầu đánh lửa để sinh công. Lúc này nhiên liệu cần được đốt cháy phải nhận được nguồn năng lượng lớn từ khe hở điện cực của bugi để chúng hoạt động hết công suất.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, khe hở giữa 2 điện cực này cũng bị ăn mòn khiến cho tia lửa điện không còn hiệu suất cao làm giảm công suất quá trình cháy.

 

Đánh lửa không đúng thời điểm

Khi động cơ hoạt động mà có hiện tượng kích nổ khi ga lớn, chế độ không tải nổ không ổn định, xe chạy hao xăng, máy nhanh nóng, lâu lâu có hiện tượng như nổ ngược. Đó chính là dấu hiệu cho thấy bộ phận đánh lửa quá sớm.

Khi hệ thống đánh lửa tạo tia lửa điện quá muộn so với thời điểm động cơ cần, thường thì sẽ gây các hiện tượng như nhiệt độ động cơ tăng cao, có tiếng nổ trong ống xả do xăng không được đốt hết và tiếp tục cháy khi ra đường xả, gây tiêu hao nhiên liệu, động cơ bị "ngợp" xăng do không được đốt cháy kịp thời làm xe không tăng tốc được. Ngoài ra động cơ còn khó khởi động.

Nguyên nhân của tình trạng này do đặt lửa sai, khe hở má vít quá nhỏ. Động cơ cần được đặt lại lửa và điều chỉnh khe hở má vít.

Cách đặt lại lửa trên động cơ: Lắp delco ( bộ chia điện ) ăn khớp với trục dẫn động. Quay trục khuỷu và quan sát xác định vị trí máy thứ nhất. Lắp các dây cao áp đúng với thứ tự của động cơ, khởi động động cơ, xoay delco điều chỉnh ở tốc độ động cơ lớn nhất và không có tiếng gõ.

Khi nổ ở chế độ không tải máy nghe nổ đều và không rung động. Khi ga nghe ngọt và mạnh là được, sau đó lắp chặt delco ở vị trí đã điều chỉnh sẽ có được một hệ thống đánh lửa đúng thời điểm và hoạt động tốt.

Tỷ số nén thấp

Vấn đề này thường xuất hiện trên xe ít thay dầu hoặc sử dụng lâu năm. Trong kỳ cháy giãn nở, khí áp suất cao lọt qua khe hở giữa pít-tông và xi-lanh hoặc giữa xu-pap và đế làm triệt tiêu áp suất nén vào pít-tông. Trường hợp nặng dầu có thể vào buồng đốt làm bẩn bu-gi. Dầu máy cũng nhanh bẩn hơn. Đây là hư hỏng nặng cần phải đại tu, để xác định chính xác vấn đề này có thể kiểm tra bằng cách bơm khí nén vào buồng đốt qua cổng lắp bu-gi và đo mức sụt áp trong kỳ nén (tất các các van của hệ thống phân phối khí đều đóng).

Minh Tùng