Ứng dụng Phật giáo trong công cuộc xây dựng nông thôn mới
1. Khái niệm về Kinh tế học Phật giáo
Kinh tế học Phật giáo (Buddhist Economics Buddhist EconomicPhilosophy)
Dù tư tưởng Phật giáo là vô thường, tuy nhiên trong vô thường cũng có những đặt tính chân thật và siêu việc hay svabhāva-śūyā. Thành tựu là nhờ thuận duyên nên vay mượn ngan qua phương tiện là vật chất (sắc, thọ, tưởng hành, thức) từ sáu đại: địa, thủy, hỏa, phong, không và thức dung hợp tạo nên mọi vật chất trong thế gian hay tục đế (saṁvṛti); với luận lý siêu việt, thâm thúy và kỳ vĩ song hành hay nhiếp phục các học thuyết kinh tế học đương đại dù chưa bàn đến Paramārtha (Thắng nghĩa đế) hay kinh tế học Phật giáo.
Kinh tế học Phật giáo là một phương pháp tiếp cận tinh thần/ tánh tướng (laṣaṇa) và triết học (philosophia/ tình yêu đối với sự thông thái) để nghiên cứu kinh tế học. Nó kiểm tra tâm trí và cảm xúc chỉ đạo trong hoạt động kinh tế, các nguyên tắc tự hiện thực hóa. Kinh tế học Phật giáo nhằm mục đích xóa tan sự nhầm lẫn về điều gì có hại và điều gì có lợi trong phạm vi hoạt động của con người liên quan đến sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, cuối cùng là cố gắng làm cho con người trưởng thành về mặt đạo đức.
Mục đích được nêu ra của hệ tư tưởng là “tìm ra một con đường giữa một xã hội trần tục, thông thường hay biến động với triết lý Kinh tế học Phật giáo là nhìn thấy “con người phụ thuộc lẫn nhau và với tự nhiên”.

Ví dụ: Nhà kinh tế học người Sri Lanka Neville Karunatilake đưa ra: "hợp tác và hài hòa” như của vua Phật giáo Ashoka. Quốc vương Bhutan Jigme Singye Wangchuck đề xướng "tổng hạnh phúc quốc gia" (GNH) thay vì chỉ được đo bằng GDP.
GS kinh tế Mỹ Clair Brown với “thịnh vượng chung và bền vững”. Do đó, triết lý về kinh tế (Philosophy of economics) là nghiên cứu mục đích của những hoạt động kinh tế của con người và những vấn đề căn bản nảy sinh trong lĩnh vực kinh tế mà Cương lĩnh Nghiên cứu Kinh tế Phật giáo tại Budapest, Hungary từ 23-24/8/2007 cùng Hội nghị lần hai tổ chức tại ĐH Ubon Ratchathani, Thái Lan từ 9-11/4/2009 là minh chứng.
2. Quan điểm của kinh tế học Phật giáo
2.1. Cội nguồn lịch sử Kinh tế học Phật giáo
Đức Phật hướng dẫn phương pháp phát triển kinh tế, giảm bớt tội phạm bằng cách sử dụng các nguồn tài nguyên để cải thiện kinh tế của quốc gia. Vị vua hay người đứng đầu đất nước phải đảm bảo cho đời sống của người dân, cũng như hỗ trợ các hoạt động cần thiết cho sự phát triển kinh tế: “Những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy hạt giống và thực vật; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về thương nghiệp, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về quan chức, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những người này chuyên tâm vào nghề riêng của mình sẽ không nhiễu hại quốc độ nhà vua. Và ngân quỹ nhà vua sẽ được dồi dào, quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp, không có tai ương, ách nạn và dân chúng hoan hỉ vui vẻ , cho con tim nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa mở rộng".
2.2 Định lý duyên khởi trong kinh tế Phật giáo
Theo Tương Ưng Bộ kinh, tập II (tập 16, 17, đại 2, 85a); kinh Phật Tự Thuyết (Udàna), Tiểu Bộ kinh; kinh Đại Bỗn; kinh Đại Duyên, Trường Bộ kinh II, ĐTKVN; kinh Trường Đại Bỗn Duyên; kinh Điển Tôn, Trường A Hàm I, ĐTKVN, và nhiều kinh khác thuộc Nam tạng, Bắc tạng (Pháp Hoa...).
Duyên khởi là giáo lý mà từ đó Thế Tôn giác ngộ Vô thượng Chánh đẳngChánh giác. Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni và chư Thế Tôn quá khứ đều giác ngộ Vô thượng giác từ giáo lý Duyên khởi (vì Duyên khởi là thực tính, thực tướng của tất cả pháp). Ghi lại lời Thế Tôn dạy rằng: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Phật".
Khi không nhận thức được sự tương quan lẫn nhau này, con người sẽ “ bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, như cỏ munja và lau sậy babaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử.
2.3 Bát chánh đạo trong kinh tế Phật giáo
1) Chánh kiến: hành động là có kết quả, cái chết không phải là kết thúc, kếtquả cả sau khi chết. (lục đạo luân hồi); chánh kiến gồm nghiệp và tái sinh. "Trí tuệ" trở thành trọng tâm trong chọn lựa nghề nghiệp lương thiện khi khởi nghiệp.
2) Chánh tư duy: ý tưởng không ái dục, không sân hận và hãm hại sẽ hỗ trợ choviệc nghiền ngẫm về sự vô thường, khổ, và vô ngã. Bản lĩnh này là cẩm nang lãnh đạo cho mọi doanh nhân trên thương trường.
3) Chánh ngữ: thô tục là nguyên nhân của mọi thất bại; phải luôn ái ngữ theo lục hòa. Đây là bản lĩnh của doanh nhân trước các đối tác và văn hóa trong công ty.
4) Chánh nghiệp: nghề nghiệp chân chánh sẽ có phúc lành cao thượng.
5) Chánh mạng: không buôn bán vũ khí, con người, thịt, rượu và thuốc độc.
6) Chánh tinh tấn: không chất chứa bất thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp, thấtgiác chi. Làm việc cần mẫn, tư duy chánh kiến. Đối với những doanh nhân nói chung là quá trình quản trị và tạo dựng chiến lược; nhất là ổn định sản xuất và phát triển thị trường.
7) Chánh niệm: "sự duy trì", đến các pháp mà có lợi ích cho con đường Thánh; "sự quán sát thuần khiết": thức tỉnh với cái mà mình đang làm, đang quản trị và trải nghiệm năm thủ uẩn, năm triền cái.
8) Chánh định: sự thực hành 4 tầng thiền, mà nó bao gồm định và sự tỉnh giác. Trong doanh nhân chánh định còn được hiểu là nhất tâm; tương đương với chuyên môn hóa và hiện đại hóa quy trình kinh doanh, sản xuất với mọi loại hình công ty. Trong tám Thánh đạo từ bài kinh Tứ Niệm Xứ thì Chánh Kiến là quan trọng nhất; người có Chánh Kiến đúng đắn sẽ có quyết định mẫu mực đến mọi công việc mỗi ngày, Chánh Kiến giúp hành giả đúng ngay từ trong suy nghỉ và khởi niệm mọi tạo tác theo Chánh niệm tỉnh giác.
2.4 Luân hồi, nghiệp quả trong kinh tế Phật giáo
“Tam giới Duy tâm, vạn pháp Duy thức ở đây đức Phật đứng trên phương diện tương đối nhân quả mà thiết lập vọng chân“Chúng sinh vì mê vọng, nên đối với không tâm, vọng sinh ra tâm, mà tạo ra các loại nghiệp, và vọng chấp cho là có thật, nên khiến cho phải luân hồi trong sáu đường, sinh tử không dứt”.
Trong kinh Tạp A-hàm: “Do vì vô minh che khuất, ái kết trói buộc, nên chúng sinh phải sinh tử luân hồi. Nếu ái kết không dứt, thì khổ biên không hết. Câu Xá luận sớ 29 giải thích: “Tất cả mọi thứ phiền não đều phát xuất từ nhân chấp ngã, nghiệp sinh tử thì do phiền não khởi; ba cõi luân hồi có được từ nhân hoặc nghiệp, bởi vậy nếu chấp ngã thì không bao giờ giải thoát được.
2.5 Taṇhā và các chỉ số kinh tế vĩ mô trong kinh tế Phật giáo
Taṇhā trong Phật giáo, GS Joan Robinson từ Cambridge đã nói: “có nhiều ví dụ trong thế giới hiện đại như hôm nay, lý thuyết của nền kinh tế thị trường tự do là nhằm để nâng cao cho sự truy cầu lợi ích cá nhân của bản thân mà thôi. Đây là việc làm có hại cho xã hội loài người”.
Frank Knight luận “con người luôn bị thúc đẩy bởi động cơ tư lợi ích kỷ và sau này trở thành chủ điểm quan trọng của lý thuyết kinh tế thị trường: Ai cũng làm vì ham lợi, phủ nhận điều này là không hợp lý” trong đời này, rất ít người không bị lôi cuốn, không bị chìm đắm, không bị say mê trong các dục và biết cách hành xử tốt đẹp với các người khác khi họ có nhiều tài sản. Và thật sự, rất nhiều người bị lôi cuốn, bị chìm đắm, bị say mê trong nhiều tài sản. Và thật sự, rất nhiều người bị lôi cuốn, bị chìm đắm, bị say mê trong các dục và không biết cách hành xử tốt đẹp với người khác khi họ giàu có.
2.6 Kinh tế theo các chỉ số HPI, GPL, GDP trong kinh tế Phật giáo
Trong kinh tế học, tổng sản phẩm nội địa, GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó hàng năm. GDP (Y) là tổng của tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu chính phủ (G) và cán cân thương mại (xuất khẩu ròng, X - M). ®Y = C + I + G + (X - M).
Tiêu dùng - consumption (C). ĐẦU TƯ - investment (I) là tổng đầu tư ở trong nước củ tư nhân. Chi tiêu chính phủ - government purch ses (G) bao gồm các khoản chi tiêu củ chính phủ cho các cấp chính quyền từ TW đến đị phương.
Xuất khẩu ròng - net exports (NX)= Giá trị xuất khẩu (X) - Giá trị nhập khẩu(M). Môi trường: khí thải, biến đổi khí hậu, nguồn nước, tài nguyên dự báo khủng hoảng lương thực sẽ xảy ra nếu nhân loại không hành động ngay để kiểmsoát lượng khí thải carbon.
2.7 Phát minh hổ trợ sản xuất, cho thế hệ tương lai trong kinh tế Phật giáo
Thanh niên, là niềm hy vọng của mỗi gia đình, là thế hệ tương lai của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Mọi tâm huyết đều được đổ dồn vào lớp trẻ. Nếu thanh niên chỉ theo đuổi tài vật và danh vọng, không màng tới an nguy của người khác, hẳn là dấu chấm hết cho gia đình, quốc gia hay dân tộc. Một người không những chỉ có tài mà cần có đức. Cổ nhân dạy “có đức mặc sức mà ăn”. Quả là vậy, một người biết tu tâm tích đức, đức ắt sẽ dày, muốn gì được nấy.
2.8 Lưu ý những bổn phận quản lý trong kinh tế Phật giáo
Trách nhiệm trong thời khóa tu tập. Nghĩa vụ thuế và tài chính. Đọc, định vị các xu hướng tiêu dùng, thị trường tiêu thụ mới và tính bảo hòa từ thị trường cũ.
“Hoạt động từ thiện là trách nhiệm thích đáng của bất cứ ai có của cải, tài sản. Một khi đã giữ lại đủ tài chính để chu toàn cho bản thân và gia đình, nên đem toàn bộ phần tài sản còn lại chia sẽ cho toàn xã hội. Đó là cách chi tiêu hợp lý nhất”.
Trong Tạp A-hàm, Đức Thế Tôn có dạy: “Một thời, Đức Phật ở trong vườnAnathapindika[11] (Tu- đạt- đa ), rừng cây Kỳ- đà, nước Xá- vệ. Bấy giờ, có một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Anathapindika (Cấp Cô Độc), rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử kia nói kệ hỏi PhậtThiên tử kia nghe Phật nói xong, hoan hỷ , tùy hỷ cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi biến mất”.
2.9 Tài sản trong kinh tế Phật giáo
“Sự chú trọng tích lũy của cải có khi tự nó ẩn chứa những hệ lụy, tuy nhiên của cải tài sản tự thân nó vốn không mang tội lỗi; điều quan trọng nhất là bằng cách nào nó được tạo ra và rồi sẽ được sử dụng như thế nào”.
Trong kinh Tăng chi bộ, Đức Phật dạy chi tiết những “tài sản có được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy đúng pháp, nên dùng để giúp đỡ cho thân quyến, bạn bè , cho người làm công, người phục vụ...giúp mang lại sự an lạc; hơn nữa, tài sản còn có thể cúng dường cho các bậc trưởng thượng, cho hàng tăng chúng để có được những kết quả tốt đẹp, có được những phước báu có thể sanh thiên".
“ Tài sản không chất chứa ăn uống biết liễu tri
Không, vô tướng, giải thoát hướng chúng đi khó tìm".

2.10 Giới - Định - Tuệ trong kinh tế Phật giáo
Giới học; Định học; Huệ học gọi là Giới, Định (hoặc Thiền), Huệ (Bát-nhã). Phát triển tâm Bát-nhã để ngộ được những sự thật cao nhất. Ba phép tu hành này phụ thuộc chặt chẽ với nhau, nếu hành giả chỉ tập trung vào một nhánh thì không thể đạt Giải thoát. Trí tuệ Bát Nhã có thể lấy ví dụ Phật tử đã xây quần thể Bái Đính và Tam Chúc nếu phi lợi nhuận và thuần phụng sự Tam bảo.
Giới là rườn cột Phật pháp. Giới còn Phật pháp còn; Giới tận Phật pháp tận.Giữ giới sẽ có định, sinh định, được nhập sâu vào thiền định, được 10 phương Chư phật hộ niệm.
Tu định sẽ có Tuệ, Định sinh Tuệ, nhập sâu vào thiền định, được 10 phươngChư phật hộ niệm thì tất yếu ắt đạt đến Trí Huệ Bát Nhã.
3. Ứng dụng Phật giáo vào công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện đại
3.1 Giải pháp kinh tế Phật giáo - Mục đích của cuộc sống
Điển tích giữa Thế - tôn và các Ni - kiền - tử “Giữa ta và nhà vua Bimbisara ai sống hạnh phúc hơn ai ?” hay Frank Knight: “Nỗ lực đi tìm giải pháp cho vấn đề kinh tế liên hệ đến cuộc hành trình đi tìm và định nghĩa một hệ thống giá trị và chỉ có thể tìm thấy giải pháp cuối cùng qua một hệ thống đạo đức, hay nói rõ hơn, giải pháp tôn giáo” mà Phật giáo là ứng dụng toàn hảo nhất.
3.2 Ứng dụng lý duyên khởi trong phát triển kinh tế Phật giáo ở nông thôn
Vô minh diệt => hành diệt => …..Ái diệt =>….khổ đau diệt.
Theo Tương Ứng Bộ kinh, tập II (tập 16, 17, đại 2, 85a); kinh Phật Tự Thuyết (Udàna), Tiểu Bộ kinh; kinh Đại Bỗn; kinh Đại Duyên, Trường Bộ kinh II, ĐTKVN; kinh Trường Đại Bỗn Duyên; kinh Điển Tôn, Trường A Hàm I, ĐTKVN và nhiều kinh khác thuộc Nam tạng, Bắc tạng (Pháp Hoa ...).
Duyên khởi là giáo lý mà từ đó Thế Tôn giác ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni và chư Thế Tôn quá khứ đều giác ngộ Vô thượng giác từ giáo lý Duyên khởi (vì Duyên khởi là thực tính, thực tướng của tất cả pháp). Kinh 28, Trung Bộ kinh I kinh Tượng Tích Dụ; Tương Ứng III, tr.144 ; Tiểu Bộ kinh I, tr.48 (bản dịch của Hòa thượng Minh Châu, ĐTKVN); ghi lại lời Thế Tôn dạy rằng: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Phật".
Từ đấy, thấy Duyên khởi triệt để quả là một cái thấy của một vị Phật.
Thấy Duyên khởi là thấy sự thật Vô ngã của các pháp ( hữu vi và vô vi), đây là cái thấy độc đáo nhất trong lịch sử tôn giáo và tư tưởng triết học xưa nay. Chính Vô ngã là nét đặc thù của giáo lý Phật giáo.
Khi không nhận thức được sự tương quan lẫn nhau này, con người “bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, như cỏ munja và lau sậy babaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử”.
Giáo lý trùng trùng duyên khởi gợi mở vô số, vô vàng nghề nghiệp thiện lành để nuôi sống gia đình và làm quê hương tươi đẹp, miễn tránh phạm 5 giới cấm.
Chuỗi sản xuất nông sản và chuỗi chế biến nông sản: chuỗi lúa gạo đến thành phẩm các loại bánh.
Chuỗi du lịch xanh, kết hợp giao lưu văn hóa Phật giáo giữa các địa phương; Chuỗi du lịch tâm linh, thiền hành, công tác từ thiện, khám bệnh, vấn đáp Phật pháp, tư vấn chọn nghề, thi đại học, du học và tìm người xuất gia đầu Phật.
3.3 Đưa Bát chánh đạo vào tạo dựng nghề nghiệp ở nông thôn
Có những nghề không nên làm - Những bổn phận/Quản lý: “Có năm nghề buôn bán, này các Tỳ - kheo, một nam cư sĩ không nên làm. Thế nào là năm Buôn bán đao kiếm, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu, buôn bán thuốc độc”. Đó còn là 5 giới trọng cho hàng xuất gia tu học cầu giải thoát.
3.4 Ứng dụng Luân hồi và nghiệp quả trong kinh tế nông thôn
“Tam giới Duy tâm, Vạn pháp Duy thức.” Ở đây đức Phật đứng trên phương diện tương đối nhị nguyên nhân quả mà thiết lập vọng chân “Chúng sinh vì mê vọng, nên đối với không tâm, vọng sinh ra tâm, mà tạo ra các loại nghiệp, và vọng chấp cho là có thật, nên khiến cho phải luân hồi trong sáu đường, sinh tử không dứt”.
Trong kinh Tạp A-hàm Đức Phật đã dạy các Tỳ-kheo: “Do vì vô minh che khuất, ái kết trói buộc, nên chúng sinh phải sinh tử luân hồi. Nếu ái kết không dứt, thì khổ biên không hết". Câu Xá luận sớ 29 giải thích: “Tất cả mọi thứ phiền não đều phát xuất từ nhân chấp ngã, nghiệp sinh tử thì do phiền não khởi; ba cõi luân hồi có được từ nhân hoặc nghiệp, bởi vậy nếu chấp ngã thì không bao giờ giải thoát được". Mở ra cho doanh nhân con đường giàu sang nhiều thế hệ. Sự thịnh vượng của doanh nhân sẽ mang đến sự thịnh vượng cho Phật giáo (xây chùa, dựng tượng, đúc chuông, công tác từ thiện, hổ trợ in kinh sách).
3.5 Chanda
Ngài Payutto, “Một khi ham muốn (taṇh) dẫn dắt những quyết định kinh tế, hành vi và thái độ kinh doanh cũng có xu hướng trở nên thiếu hoặc phi đạo đức; nhưng khi ham muốn ấy hướng đến an lạc và hạnh phúc (chanda) dẫn lối cho hoạt động kinh doanh, những hành vi kinh tế tự khắc trở nên có đạo đức".
Hòa Thượng Hsing Yun bày tỏ: “nếu những doanh nghiệp kinh doanh có thể để tinh thần tất cả vì lợi nhuận sang một bên và học hỏi tinh thần doanh nhân của đạo Phật thì họ vừa có thể đạt được những thành tựu lớn lao hơn vừa đóng góp được nhiều hơn vào sự tiến bộ của xã hội".
3.6 Đo hiệu quả qua các chỉ số HPI, GPI để điều chỉnh các kế hoạch
Chỉ số hành tinh hạnh phúc HPI: một tổ chức nghiên cứu kinh tế - xã hội có trụ sở chính tại Vương quốc Anh) công bố… Một nước có chỉ số HPI cao chưa chắc đã là nước hạnh phúc thực sự mà có thể chỉ vì họ không khai thác quá nhiều tài nguyên. Những con số trên cho thấy tính độc lập rất lớn của các tiêu chí do NEF đưa ra với các chỉ số khác như HDI (chỉ số phát triển con người) và GDP (tổng sản phẩm quốc nội), vì các nước có chỉ số HPI cao lại thường có HDI và GDP thấp và ngược lại. Bằng chứng là Vanuatu - nước có chỉ số phát triển con người đứng thứ 120 thế giới lại là nước có HPI cao nhất, còn Hoa Kỳ nước giàu có nhất thế giới - lại chỉ xếp hạng 150 trên tổng số 178 nước được khảo sát.
Theo quan điểm của Schumacher, mục tiêu của kinh tế học Phật giáo là “nâng cao đời sống văn hóa, tối đa chỉ số hạnh phúc và giảm tối thiểu sự tàn phá". Nên chỉ số tiến bộ thực sự GPI: là một số liệu được sử dụng để đo lường sự tăng trưởng và thịnh vượng kinh tế của một quốc gia. Chỉ số GPI tính đến mọi thứ GDP sử dụng, nhưng thêm các số liệu khác thể hiện chi phí của các tác động tiêu cực liên quan đến hoạt động kinh tế (chi phí tội phạm, chi phí suy giảm tầng ozone và cạn kiệt tài nguyên, tránh các thiên địch, giặc, cướp, nước lũ và cháy nổ…).
3.7 Các phương pháp hỗ trợ sản xuất kinh tế nông thôn
Chuyển giao công nghệ và các phương cách khai thác vận hành trang thiết bị; Thương mại điện tử, tham gia sàn thương mại quốc tế.
Nhóm các giải pháp nội bộ và liên kết mở: FB, ZALO, email.Huấn luyện, đào tạo marketing mix: tiếp thị, bán hàng, trưng bày sản phẩm mẫu.
Tập huấn thuyết trình công ty và dòng các sản phẩm đặt sắc theo vùng, miền.
Khi sắp xếp lao động, người Phật tử thường nhìn đến ba phương diện: trước tiên là tạo cơ hội cho công nhân thi thố tài năng, thứ đến là giúp cho mỗi người cùng cộng tác với các đồng nghiệp để tự xóa dần tính vị kỳ (chấp ngã), và sau cùng là mang đến thật nhiều phúc lợi cho dân để cuộc sống được an lạc trong tự tại. Và như thế, phương cách này nên được áp dụng liên tục và mãi mãi trong tạo vô vàn nhân duyên lành và cao thượng nhà Phật.
Đức Phật hướng dẫn phương pháp phát triển kinh tế, giảm bớt tội phạm bằng cách sử dụng các nguồn tài nguyên để cải thiện kinh tế của quốc gia. Vị vua hay người đứng đầu đất nước phải đảm bảo cho đời sống của người dân, cũng như hỗ trợ các hoạt động cần thiết cho sự phát triển kinh tế: “Những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy hạt giống và thực vật; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về thương nghiệp, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về quan chức, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những người này chuyên tâm vào nghề riêng của mình sẽ không nhiễu hại quốc độ nhà vua. Và ngân quỹ nhà vua sẽ được dồi dào, quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp, không có tai ương, ách nạn và dân chúng hoan hỷ vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa mở rộng".
Gia đình thu nhập thấp: “kinh tế học Phật giáo tiến đến sự chăm sóc những gia đình có thu nhập thấp có đủ khả năng để mua sắm nhu cầu căn bản cùng với sự gia tăng đầy đủ các vấn đề chăm sóc sức khỏe, giáo dục và mạng lưới công việc của xã hội, và tất cả mọi người có được thành tựu chung và tiềm lực sung mãn”.
3.8 Lưu ý những bổn phận trong phát triển và quản lý kinh tế nông thôn
Trách nhiệm thời khóa tu tập trên nông trường, trang trại và công ty nghĩa vụ thuế và tài chính.
Đọc, định vị các xu hướng tiêu dùng, thị trường tiêu thụ mới và tính bảo hòa từ thị trường cũ. Tạo dựng thương hiệu sạch, có xuất xứ nguồn gốc đến từng thôn, bản, ấp, xã… đây cũng là kênh để đưa Phật học đến cho đồng bào
"Sống tỉnh thức bằng tình thương yêu, từ bi và trí tuệ, biết chăm sóc và quan tâm đến mọi người, giúp cho họ có thể giảm thiểu khổ đau".

Bill Gates bày tỏ: “We think that‟s a basic responsibility of anyone with a lot of money. Once you‟ve taken care of yourself and your children, the best use of extra wealth is to give it back to society”. (Tạm dịch: Chúng tôi nghĩ rằng đó - hoạt động từ thiện là trách nhiệm thích đáng của bất cứ ai có của cải, tài sản. Một khi đã giữ lại đủ tài chính để chu toàn cho bản thân và gia đình, nên đem toàn bộ phần tài sản còn lại chia sẽ cho toàn xã hội. Đó là cách chi tiêu hợp lý nhất).
Anathapindika (Tu-đạt-đa ) là minh chứng hùng hồn nhất từ cổ đại cho đến nay, tiếng thơm hương Đức bay mãi cùng nhân loại bởi Cấp Cô Độc đã tận hiến cho tăng đoàn và đại chúng đến đồng tiền cuối cùng của Anathapindi; đến “Thiên tử kia nghe Phật nói xong, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi lui về”.
3.9 Tài sản tạo dựng cho nông thôn mới hiện đại Việt Nam
Điện thắp sáng: Cả đảm bảo cho sản xuất CNH - HĐH nông thôn.
Nước sạch sinh hoạt: đủ dùng cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp sạch, an toàn trong sản xuất thực phẩm xanh, sạch, chất lượng cao và có xuất xứ (giấy khai sinh).
Giao thông mới hiện đại: không xảy ra điểm đen giao thông, tắt nghẹt giao thông.
Trường học đạt chuẩn quốc gia: phổ cập cấp 3 và đào tạo nghề 100% dân số nông thôn. Có trung tâm đào tạo chuyên viên cao cấp cho nhu cầu địa phương.
Y tế đủ cơ cấu giường bệnh, đủ cơ cấu thuốc, đủ cơ số bác sỹ; đạt chỉ số hạnh phúc.
Chính trị, an ninh yên bình: Không trộm cướp, không xã hội đen, không bảo kê. Sự chú trọng tích lũy của cải có khi tự nó ẩn chứa những hệ lụy, tuy nhiên của cải tài sản tự thân nó vốn không mang tội lỗi; điều quan trọng nhất là bằng cách nào nó được tạo ra và rồi sẽ được sử dụng như thế nào.
Đạo Phật dạy con người làm những nghề nghiệp chân chánh để tạo ra tài sản chân chánh. Tránh xa những việc phi pháp, trái đạo đức lương tâm và trái với luật nhân quả. Nhà thực hiện hành vi kinh tế phải biết kiểm soát hành vi khi tham ái khởi lên, giảm đi sự đố kỵ, giận hờn, đấu tranh trong quá trình kinh doanh trao đổi để tìm kiếm của cải và phát triển tài sản bản thân.
“Tài sản của con người thuộc bản chất bên trong, bao gồm khả năng đánh giá những kinh nghiệm, mối quan hệ và cuộc sống khi nó mở bày quanh chúng ta. Tài sản của Phật giáo bao gồm việc sử dụng thông thái về những nguồn tài nguyên để đáp ứng cuộc sống và giúp đỡ người khác. Đồng thời, Phật giáo dạy tài sản chân thật của chúng ta là tình thương yêu, từ bi và trí tuệ đó mới là tài sản vô tận".
Trong kinh Tăng chi bộ, Đức Phật dạy chi tiết những “tài sản có được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy đúng pháp, nên dùng để giúp đỡ cho thân quyến, bạn bè, cho người làm công, người phục vụ... giúp mang lại sự an lạc; hơn nữa, tài sản còn có thể cúng dường cho các bậc trưởng thượng, cho hàng tăng chúng để có được những kết quả tốt đẹp, có được những phước báu có thể sanh thiên".
3.10 Giới - Định - Tuệ là tài sản vô giá cho phát triển nông thôn hiện đại
Việc ứng dụng các giáo lý Phật giáo trong kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng cho việc phát triển kinh tế xã hội, tạo dựng đạo đức con người, đem lại đời sống an vui và hạnh phúc. Một khi có được đầy đủ các yếu tố trên thì thế giới sẽ phát triển thịnh vượng, công bằng, văn minh và toàn diện. Cách tạo dựng cho đồng bào đi vào Giới - Định - Tuệ là làm việc kết hợp thiền hành qua “từng bước chân an lạc” và những bài kinh để buột tư tưởng vào “Chánh niệm tỉnh thức”. Những cánh đồng, những bãi bờ hoàn toàn có sóng wifi nên kinh luật luận nguyên chất cần chia sẻ đa phương tiện nghe lên Zalo, FB, Tiktok… khi đồng bào đang làm việc và nghe nhìn khi nghỉ ngơi và thực tu khi hết giờ lao động theo mục tiêu làm giàu và tu tiến Phật đạo mỗi ngày mỗi thăng hoa để đoạn tận Tham – Sân – Si.
Một vị tăng thưa với đức Phật, tại sao biết tham dục là bất thiện nhưng con vẫn không đoạn trừ được – tại vì người thiếu thiền định.
“Thiền mang đến một sức mạnh tiềm ẩn vô biên. Ngoại hình thì gia tăng sắc đẹp, nội tạng thì khỏe mạnh hơn". Chất xám ‟gia tăng nhờ ngồi thiền, mà không cần phải dùng thuốc dưỡng não. Nhiều thứ thuốc còn gây tác dụng phụ không phải ít".
Thiền áp dụng cho nông thôn sẽ đem lại:
1) Thiền gần như chắc chắn làm tăng ý chí của chúng ta.
2) Thiền định lâu dài và nhất quán có làm tăng khả năng chống lại căng thẳng.
3) Thiền định làm tăng lòng từ bi; khiến lòng từ bi của chúng ta hiệu quả hơn.
4) Thiền định cải thiện sức khỏe tâm thần - nó là nhất về hiệu quả hơn các phương pháp khác mà chúng ta có thể thực hiện.
5) Chánh niệm có thể có tác động tích cực đến các mối quan hệ của chúng ta.
6) Thiền chánh niệm có khả năng làm giảm nhiều loại thành kiến.
7) Thiền chánh niệm có khả năng làm giảm nhiều loại sâu bệnh.
8) Thiền chánh niệm có khả năng làm giảm nhiều loại thiên địch.
9) Thiền chánh niệm sẽ làm tăng năng xuất nhờ nghiệp lành.
10)Thiền chánh niệm sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm nhờ nghiệp thiện.
11)Thiền chánh niệm sẽ làm tăng sự đoàn kết trong nhân dân nhờ nghiệp thiện.
12)Thiền chánh niệm sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm nhờ nghiệp thiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh Trường B , “15. Đại Duyên”, Thích Minh Châu (dịch), Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2018.
2. Bhar, S. (2018), “Consuming with Mindfulness: Import of BuddhistPhilosophy for an Ethic toward Consumerism”, Pertanika Journal of SocialScience & Humanities, Vol. 26.
3. Clair Brown, Thích Thiện Chánh (dịch), (Buddhist Economics) Kinh tế học Phật giáo, Hà Nội: Nxb. Tri Thức, 2020.
4. Đại Tập 7 - B -Hàm VII - Kinh Tạp -Hàm Số 3, iệt Dịch Kinh Tạp - hàm - Quyền XIV, Thích Tịnh Hạnh dịch, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn,Đài Bắc, 2000.
5. Tam Tạng Tăng-Già-Đề-Bà, Tuệ Sỹ dịch, Kinh Trung -Hàm, Tập 1, “70.Kinh Chuyển Luân Vương”, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2008.
6. Kinh doanh và Đức Phật, Trịnh Đức Vinh (dịch), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội,2010.
7. Kinh Pháp Cú, “Phẩm A La Hán – số 92”, Thích Minh Châu (dịch), Nxb.Hồng Đức, Hà Nội, 2019.
8. Kinh Tăng Chi I, “VII. Phẩm Nghiệp Công Đức”, Thích Minh Châu(dịch), Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2015.
9. Kinh Tạp Hàm, Thích Đức Thắng (dịch), Nxb. Phương Đông, 2002.
10. Kinh Tiểu bộ 6, Thích Minh Châu (dịch), Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2002.
11. Kinh Trường 1, “5. Kinh Kutadanta”, Thích Minh Châu (dịch), Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, HCM, 1991.
12. Kinh Trường 2, “26. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống”, Thích Minh Châu (dịch), Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, HCM, 1991.
13. Nhiều Tác Giả, Thiền Và Những Lợi Ích Thiết Thực, Nxb. Phương Đông,2012.
14. J. C. Kapur, Our Future: Consumerism Or Humanism, New Delhi: KapurFoundation Publication, 2005.
15. Payutto, P. A. (1998), Buddhist Economics: A Middle Way for the MarketPlace, Bangkok: Buddha Dhamma Foundation.
16. Quán Như Phạm Văn Minh, Kinh tế Phật giáo, Nxb. Văn hóa – văn nghệ,HCM, 2012.
17. Thích Tâm Đức, Buddhist Solutions, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2008.
18. Trương Quang Học, “Phát triển hợp sinh thái: Xu hướng thời đại và triểnvọng của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ IV, Đại họcQuốc gia Hà Nội – Viện Tài nguyên và môi trường, Nxb. Khoa học và Môi trường, Hà Nội, 2020.
19. https://baotainguyenmoitruong.vn/doi-mat-voi-suy-thoai-he-sinh-thai-tunhien-295451.html.
20. Thích Quảng Độ dịch. (2014). Phật quang đại từ điển. Tập: 1,4,6. Tp Hồ ChíMinh: NXB Phương Đông.
21. Thích Quảng Độ dịch. Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận. Nguyên Thu Phậtgiáo tư tưởng luận. Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận.
22. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ - Thích Nguyên Hiệp.23. Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (Chương 3 nói nhiều về Tam Thân).
24. Mười hai bộ kinh cơ bản.
TK. Minh Trí
TIN LIÊN QUAN
-
Suy tôn Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng lên ngôi vị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam
-
1.091 đại biểu tham dự lễ Bế mạc Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX
-
Khai mạc Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần IX
-
Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX: 'Kỷ cương - Trách nhiệm - Đoàn kết - Phát triển'
Tin khác
