Năm Tỵ và những dấu mốc lịch sử của dân tộc
Hơn thế nữa, 2025 còn là năm đất nước bắt đầu bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Hãy cùng nhìn lại những dấu mốc lịch sử đáng ghi nhớ trong năm Tỵ của đất nước ta.
Năm Tân Tỵ (981) – Năm Đinh Tỵ (1077) và bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên Trước họa xâm lăng, cuối năm 980, quân Tống chia làm nhiều mũi tiến đánh. Đầu năm 981, sau một thời gian tổ chức kháng chiến, quân dân Đại Cồ Việt dưới sự chỉ huy của Lê Hoàn, phá tan được thủy quân giặc, do Lưu Trừng cầm đầu ở sông Bạch Đằng, đánh thắng lớn ở Bình Lỗ (vùng huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội), giết chết tướng giặc là Hầu Nhân Bảo, phá tan giặc ở Tây Kết (vùng Hiệp Hòa, Việt Yên, Bắc Giang), đuổi Trần Khâm Tộ chạy dài, bắt sống tướng giặc là Triệu Phục Hưng và Quách Quân Biện đem về giam tại Hoa Lư. Quân Tống bị đánh bại, nhà Tống ra lệnh bãi binh. Quân dân Đại Cồ Việt giành thắng lợi rực rỡ. Cũng từ đây, bài thơ huyền thoại “Nam quốc sơn hà” ra đời gắn với chiến công hiển hách đánh tan quân Tống xâm lược lần thứ nhất của vua Lê Đại Hành. Theo năm tháng, bài thơ từ chỗ gắn liền với một thời đại, một nhân vật lịch sử đã trở thành bài thơ cho mọi thời đại, “có tính chất quốc thi, quốc thiều, có giá trị như Tuyên ngôn độc lập” của nước ta thời bấy giờ.

Năm Kỷ Tỵ (1149): Vân Đồn – Thương cảng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam Theo sử sách, mùa xuân năm Kỷ Tỵ (1149), vua Lý Anh Tông đã cho lập trang Vân Đồn - đánh dấu sự ra đời của thương cảng sớm nhất lịch sử Việt Nam. Giá trị lịch sử, văn hoá của thương cảng Vân Đồn và tầm ảnh hưởng của nó đến lịch sử Quảng Ninh nói riêng, đất nước nói chung, đã được nhiều nhà khoa học khẳng định. Lịch sử hình thành thương cảng Vân Đồn được Đại Việt Sử ký toàn thư ghi: “Kỷ Tỵ, (Đại Định) năm thứ 10 (1149), mùa xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào Hải Đông, xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương”. Cái tên Vân Đồn lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ ấy.
Năm Đinh Tỵ (1257): Đánh thắng quân Mông Nguyên, giữ vững nền độc lập Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất. Chủ tướng Mông Cổ ở Vân Nam là Ngột Lương Hợp Thai (Uryangkhađai) huy động 3 vạn quân kỵ, bộ cùng nhiều tướng giỏi chia làm 2 đạo theo đường sông Thao tiến vào nước ta. Vua Trần Thái Tông đem quân lên phía Bắc đánh giặc. Sau các cuộc giao tranh quyết liệt, trước thế giặc mạnh, quân ta rút lui bảo toàn lực lượng. Cả nước thực hiện “vườn không nhà trống”, tiến hành chiến tranh du kích tiêu hao địch. Đến 24 tháng Chạp, vua Trần phản công, đánh tan giặc ở Đông Bộ Đầu (khu vực Long Biên - Hà Nội) thu phục kinh thành. Giặc Nguyên Mông phải tháo chạy về nước. Nhờ chiến thắng Đông Bộ Đầu cuối năm Đinh Tỵ (1257), đất nước Đại Việt có được mùa xuân thái bình ngay sau đó, tạo bàn đạp tinh thần và lực lượng vững chắc để về sau đối đầu với quân Nguyên trong hai lần xâm lược gần 40 năm sau. Và đến năm Ất Tỵ (1305), đất nước lại có một tin vui khác.
Quý Tỵ (1533): Lê Trung hưng - Triều đại dài nhất trong lịch sử các triều đại Năm 1428, Nhà Lê sơ thành lập, đất nước bước sang thời kỳ phát triển cực thịnh. Tuy nhiên, hai phương Nam – Bắc phân chia. Năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê Cung Hoàng, lập nên nhà Mạc. Tuy nhiên, Lê Trung hưng được tiếp nối ngay sau đó với vị vua Lê Trang Tông. Sự nghiệp Trung hưng nhà Lê được Đại Việt sử ký tiền biên ghi: “Quý Tỵ (1533). Mùa xuân, tháng giêng, vua lên ngôi ở Ai Lao (nước Lào ngày nay – tác giả), đặt niên hiệu là Nguyên Hòa, tôn Đại tướng quân Nguyễn Kim là Thượng phụ thái sư Hưng quốc công, chưởng nội ngoại sự, lấy trung nhân Đinh Công làm Thiếu Úy Hùng Quốc Công, còn lại, người nào cũng được phong thưởng để họ đồng lòng giúp rập”. Vua Lê Trang Tông với sự kiện lên ngôi ở Ai Lao năm Quý Tỵ (1533) cũng trở thành vị vua đầu tiên và duy nhất trong các vua Việt lên ngôi hoàng đế ở nước ngoài. Với sự kiện Quý Tỵ, nhà Lê Trung Hưng được lập nên, tồn tại cho đến năm Kỷ Dậu (1789), nhà Hậu Lê trở thành một triều đại tồn tại lâu dài nhất nước Việt.
Năm Kỷ Tỵ (1929): Ba tổ chức cộng sản ra đời Năm 1929, phong trào công nhân, phong trào nông dân và các tầng lớp khác cũng đã phát triển, kết hợp thành một làn sóng cách mạng dân tộc, dân chủ mạnh mẽ trong đó giai cấp công nhân đã trở thành lực lượng tiên phong. Từ ba đòi hỏi phải có một chính đảng vô sản lãnh đạo. Vào tháng 3/1929, những người con ưu tú nhất của giai cấp công nhân Việt Nam đã đứng ra thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên tại số 5D Hàm Long, Hà Nội. Không bao lâu sau, ngày 17/06/1929, Đông Dương cộng sản Đảng thành lập, rồi tháng 8 năm ấy thành lập An Nam cộng sản Đảng vào tháng 9/1929. Để rồi vào ngày 3/2/1930, ba tổ chức cách mạng Việt Nam nói trên đã họp tại Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc để hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm Tân Tỵ (1941): Bác Hồ về nước và sự ra đời của mặt trận Việt Minh Trải qua 30 năm bôn ba khắp các nước từ Châu Á đến Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ... Mùa xuân năm Tân Tỵ, đúng vào ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã bí mật về nước qua ngả biên giới Việt - Trung thuộc Pắc Bó (Hà Quảng - Cao Bằng). Tại đây, Bác đã bắt tay ngay vào việc xây dựng căn cứ địa, tổ chức các đoàn thể cứu quốc và chuẩn bị Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại núi rừng Pắc Bó hùng vĩ, Bác lại tiếp tục mở lớp huấn luyện về công tác Đảng, công tác quần chúng. Người cũng đã dịch cuốn “Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô”, dùng làm tài liệu quan trọng cho các lớp huấn luyện. Và sự ra đời của mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941) cũng đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, mở đầu cho một cao trào mới: “đánh Pháp, đuổi Nhật”, tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, giành chính quyền về tay nhân dân.
Năm Đinh Tỵ (1977): Việt Nam chính thức là thành viên thứ 149 của Liên Hợp Quốc Hai năm sau khi Tổ quốc ta được thống nhất, cả nước ca khúc khải hoàn, bắt đầu thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế. Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149 của Liên Hiệp Quốc. Sự kiện này đã mở ra một thời kỳ mới cho ngoại giao đa phương Việt Nam với những đóng góp quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo về Tổ quốc.
Năm Kỷ Tỵ (1989): Những năm đầu tiên của công cuộc đổi mới Năm 1989, nền kinh tế đất nước đang đứng trước muôn ngàn khó khăn và thử thách. Trong hoàn cảnh đó, Đảng ta đã vừng tay chèo lái, đưa con thuyền dân tộc vượt qua sóng gió. Theo thống kê, năm 1989, từ một nước thiếu gạo, dựa vào nguồn việc trợ của các nước trên thế giới, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới. Tình hình chính trị xã hội ổn định, vượt qua thách thức do tác động của khủng hoảng và sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tạo tiền đề cho công cuộc đổi mới thắng lợi của dân tộc.
Năm Quý Tỵ (2013): Dân số Việt Nam đạt ngưỡng 90 triệu người
Ngày 1/11/2013, công dân thứ 90 triệu của Việt Nam ra đời, đưa nước ta trở thành quốc gia có quy mô dân số đứng thứ 14 trên thế giới, với cơ cấu dân số vàng, tức là ít nhất có 2 người trong tuổi lao động “nuôi” 1 người trong độ tuổi phụ thuộc. Đây là cơ hội, nhưng cũng là thách thức khi quy mô dân số cần phải gắn liền với chất lượng dân số và cơ cấu dân số vàng gắn với chất lượng nguồn nhân lực.

Năm Ất Tỵ (2025): Bước vào Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Năm 2025 là năm diễn ra lễ Kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, kỷ niệm 50 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng 8 thành công và Quốc khánh 2/9; năm có ngày kỷ niệm năm tròn chẵn của hầu hết các bộ, ngành và nhiều địa phương trong cả nước.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích.
Với những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu. Có thể thấy, đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đức Tài
TIN LIÊN QUAN
Tin khác
