Biển đảo và thi ca
Ý thức về chủ quyền biển đảo đã hiện hữu từ lâu trong lịch sử văn hóa. Từ trong truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trứng, qua chi tiết 50 người con cùng cha xuống biển để lập và giữ nước. Hiếm có một quốc gia Đông Nam Á nào mà lại có truyền thuyết về nòi giống của mình đã gắn liền với biển như Việt Nam. Điều đó cho thấy căn cước dân tộc Việt Nam gắn liền với biển đảo.
Từ truyền thuyết, đến những câu nói bất hủ của Bà Triệu trong cuộc kháng chiến chống quân Ngô xâm lược: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người”, hình tượng biển với ý thức cương thổ và khát vọng chinh phục đại dương cũng như ý chí chống quân xâ lược lại được khắc họa đầy ấn tượng.
Những trận đánh hào hùng như Bạch Đằng, Hàm Tử, Chương Dương, Vân Đồn cùng chiến công chống lại quân xâm lược Trung Hoa trên biển của các thế hệ anh hùng như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn càng xác tín hơn về một dân tộc hàng ngàn năm đã sống và chiến đấu, gắn bó mật thiết với biển. Đặc biệt là đại thắng của tướng Trần Khánh Dư đối với quân Mông Nguyên trong cuộc chiến thủy quân Vân Đồn: “Khi ấy, thủy quân nhà Nguyên đánh Vân Đồn. Hưng Đạo Vương giao hết công việc ở biên thùy cho Vân Đồn phó tướng là Nhân Huệ Vương Khánh Dư. (Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971, trang 65), Khánh Dư đánh, giặc bị thua, bắt được lương thực khí giới của giặc không xiết kể, bắt sống quân giặc rất nhiều” (Đại việt sử kí toàn thư, trang 66).
Những năm 1974, nhà thơ Tô Thùy Yên đã viết bài thơ Trường Sa Hành khi đặt chân lên đảo, minh định về chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam: Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!/ Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề/ Lính thú mươi người lạ sóng nước/ Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi".
Từ đó, các thế hệ thi sĩ đã đau đáu hướng về Hoàng Sa, Trường Sa. Mỗi một nhà thơ bằng tình yêu biển đảo, lòng tự hào dân tộc có một cách riêng để viết về Hoàng Sa Trường Sa. Tiếng nói tự hào về chủ quyền vang lên trong những bài thơ của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến như:
Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
(Tổ quốc nhìn từ biển)
Mẹ Tổ quốc vẫn luôn ở bên ta
Như máu ấm trong màu cờ nước Việt
Biển Tổ quốc đang cần người giữ biển
Máu ngư dân trên sóng lại chan hòa
Máu của họ ngân bài ca giữ nước
Để một lần Tổ quốc được sinh ra
Sớm mai này nắng ấm ở Trường Sa
Tiếng gà gáy bình yên trên ngực đảo
Tiếng trẻ nhỏ đến trường nơi sóng bão
Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra
(Tổ Quốc ở Trường Sa)
Biết bao thế hệ đã anh dũng hi sinh để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng biển đảo, để cuộc sống của nhân dân trên đảo được ấm no, hòa bình, sự sống sinh sôi qua tiếng gà gáy và tiếng trẻ thơ đến trường.
Cũng nằm trong đề tài về biển đảo, nhà thơ Ngọc Lê Ninh đã sáng tác thi phẩm Hịch sóng gào. Bài thơ mang vẻ đẹp hào khí dũng cảm khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam ở Trường Sa, Hoàng Sa: Đêm nằm nghe sóng gào/Từ Hoàng sa, Trường Sa/Vọng hồn bao lính đảo/Nhắc ta giữ đất nhà/Đây Hoàng sa! Trường Sa!/Ghi sách trời, sách sử/Đây máu thịt ông cha/Bao đời qua gìn giữ. Qua bài thơ, ta cảm nhận được tấm lòng đau đáu của thi nhân đối với đất nước, non sông. Chỉ một từ gào thôi mà rung cảm xiết bao, để diễn tả hết những giông bão đang thét gào trong anh trước cảnh Hoàng Sa, Trường Sa đang bị Trung Quốc thôn tính. Đặc biệt hơn là bài thơ này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nga và đăng trên nhiều tạp chí thơ quốc tế để bạn bè khắp năm châu hiểu được Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Đó là chân lí, đó là sự thật.
Ngoài ra, cảm hứng về biển còn được các nhà thơ lớn quan tâm gắn liền với vẻ đẹp trữ tình, với tình yêu. Đặc sắc nhất là bài Thơ viết ở biển của nhà thơ Hữu Thĩnh:
Anh xa em
Trăng cũng chợt lẻ loi thẫn thờ
Biển vẫn thấy mình dài rộng thế
Xa cánh buồm một chút đã cô đơn
Cái tôi trữ tình tha thiết, khắc khoải với tình yêu sâu sắc vô bờ và nỗi cô đơn tuyệt đích khi đứng trước biển mà không có em của nhà thơ đã quyến rũ biết bao nhiêu tâm hồn độc giả.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã kiến tạo thi ảnh đầy ấn tượng biển một bên và em một bên trong bài Thơ tình người lính biển. Tình yêu của người lính biển được khắc họa thật lãng mạn, nên thơ với mây treo ngang cánh buồm trắng. Người lính đứng gác giữa đảo vắng không bao giờ cô đơn giữa muôn trùng sóng biển vì trong tim anh có hình ảnh của người thương luôn sát cánh. Và hơn bao giờ anh hiểu rằng, anh chiến đấu hi sinh vì sự bình yên cho người mình yêu
Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên
Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác.
Trời khuya.
Đảo vắng
Biển một bên và em một bên
Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa.
Chỉ mình anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên...
Có thể nói, biển đảo gắn liền với đời sống của dân tộc Việt Nam từ xưa cho đến nay. Biển đảo trở thành niềm cảm hứng bất tận của các thế hệ thi nhân người Việt. Ý thức chủ quyền thiêng liêng và tình yêu biển đảo chảy trong huyết mạch của mỗi người. Đây cũng là một phương diện quan trọng cùng với các chứng cứ lịch sử để góp phần vào xác tín cơ sở khẳng định sự chính nghĩa của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Huỳnh Thu Hậu