Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường số
Trước thực tiễn phát triển không ngừng của tài nguyên thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN), nguồn tin KH&CN cung cấp thông tin thúc đẩy hoạt động học tập, khoa học và đổi mới phát triển. Tại Việt Nam, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (TTKH&CNQG) là đầu mối thông tin KH&CN của cả nước, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cung cấp nguồn tin KH&CN phục vụ cộng đồng. Nhiều ý kiến cho rằng chất lượng sản phẩm và dịch vụ nguồn tin KH&CN tại đây chưa được đảm bảo, đặc biệt là khi đặt trong xu thế sự phát triển của hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT) gắn với chuyển đổi số và xu thế truy cập mở tài nguyên thông tin.
Thực trạng thực hành chính sách phát triển nguồn tin KH&CN tại Cục TTKH&CNQG
Trong chuyên đề, nhóm tác giả đã trình bày rõ các yếu tố tác động đến thực trạng thi hành chính sách hiện nay. Nguồn nhân lực đảm bảo và bám sát chính sách ban hành; Cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ đáo ứng nhu cầu của người sử dụng thông tin; Nguồn tài chính được cung cấp đầy đủ, đảm bảo thực hiện các hoạt động mua CSDL KH&CN, phát triển nguồn nhân lực, bổ sung cơ sở vật chất, chuyển đổi số...; Bên cạnh đó, CSDL KH&CN được trang bị đầy đủ, gồm cả trong và ngoài nước, nguồn tin KH&CN chất lượng. Song chưa hoàn toàn đáp ứng nhu cầu người sử dụng. Chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp, chưa có biện pháp truyền thông, quảng bá... nhằm tăng khả năng tiếp cận cho người dùng tin KH&CN.
Đặc biệt, về vấn đề bảo hộ quyền SHTT trong môi trường số hiện nay, các dữ liệu đang được số hóa toàn bộ cơ sở dữ liệu trừ toàn văn các đề tài nghiên cứu (cấp Bộ, tỉnh, dự án KX...) do Nhà nước đảm nhiệm. 70,6% số người được khảo sát cho biết họ không thể truy cập thông tin, dù đã tìm thấy thông tin và đăng ký thành viên đặc biệt. Các biện pháp công nghệ cũng được áp dụng để hạn chế tối đa xâm phạm quyền SHTT trong môi trường số. Tuy nhiên mô hình hoạt động thông tin chư được tối ưu, vẫn còn đơn giản và chưa gắn với nguyên lý "thị trường kéo" mà chỉ thuần túy cũng cấp, chưa chú trọng nhu cầu, thị hiếu của người sử dụng thông tin KH&CN.
Các vấn đề và nguyên nhân dẫn đến thực trạng thực hành chính sách
Chuyên đề nhấn mạnh đến 3 vấn đề chính vẫn còn tồn tại trong việc thi hành chính sách phát triển nguồn tin KH&CN tại Cục TTKH&CNQG. Thứ nhất là yếu tố về nguồn lực, nguồn lực đủ cả về nhân lực và vật lực nhưng được sử dụng một cách thực sự hiệu quả. Thứ hai, vấn đề về bảo hộ quyền SHTT trong môi trường số vẫn còn hiện tượng nghiên cứu trùng lặp do không tiết lộ CSDL, gây lãng phí ngân sách Nhà nước. Cuối cùng là mô hình hoạt động chưa được tối ưu, dẫn đến không đảm bảo khả năng tiếp cận của người dùng tin KH&CN.
Một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng và vấn đề được đề cập trong chuyên đề là vấn đề mâu thuẫn cân bằng lợi ích. Đóng gần như hoàn toàn quyền truy cập đối với CSDL về các đề tài khoa học do Nhà nước đảm nhiệm nhằm bảo mật các thông tin có giá trị, các thông tin có được thông qua đầu tư hàng trăm đến vài tỉ đồng. Bên cạnh đó là mô hình hoạt động chưa thích nghi với các điều kiện mới, các thiết chế chưa theo kịp thực tiễn.
Đề xuất khung đánh giá khả năng truy cập mở nguồn tin khoa học và công nghệ
Tại hội thảo, nhóm trình bày chuyên đã có những đề xuất để khắc phục những vấn đề còn tồn đọng của việc bảo hộ quyền SHTT trong môi trường số như: Mở hoàn toàn quyền truy cập (hay toàn văn) đối với một số đề tài không có giá trị đem lại lợi thế cạnh tranh trực tiếp, song có thể phục vụ tham khảo, học tập, nghiên cứu khoa học và đổi mới; Cân bằng lợi ích của 02 chủ thể: Nhà nước - Người sử dụng thông tin KH&CN; Đề xuất mô hình hoạt động thông tin mới gắn với thị trường.
Đối với thông tin, có 03 yếu tố được thao tác: Phân loại theo mục đích nghiên cứu (Nghiên cứu cơ bản - Nghiên cứu ứng dụng); Phân loại theo khả năng thương mại hóa (Có - Không); Phân loại theo tin mật hay không mật (Có - Không). Đối với người dùng tin KH&CN, có 02 yếu tố được thao tác: Thẩm quyền và Mục đích tiếp cận nguồn tin.
(A) Truy cập mở hoàn toàn: Tự do tiếp cận không phân biệt đối tượng;
(B) Truy cập mở một phần: Chỉ một số đối tượng có thẩm quyền, hoặc được ủy quyền được phép tiếp cận (chứng minh được mục đích tiếp cận);
(C) Truy cập đóng hoàn toàn: Không ai có quyền được tiếp cận, trừ cấp có thẩm quyền đặc biệt.
Các đề xuất mong muốn có thể bổ sung nguồn tin KH&CN chất lượng phục vụ cộng đồng, đảm bảo không lãng phí ngân sách Nhà nước và giảm thiểu khả năng nghiên cứu trùng lặp.
Mô hình hoạt động cũng được đề xuất mới. Gắn việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ thông tin KH&CN với thị hiếu, làm thế nào để nguồn tin KH&CN tiếp cận được với nhiều đối tượng sử dụng thông tin nhất có thể, cũng như thuận tiện trong việc sử dụng nguồn tin. Từ đó, thúc đẩy hoạt động học tập, nghiên cứu và đổi mới phát triển.
Thông qua nhận diện và đánh giá thực trạng tại Cục TTKH&CNQG, nhóm tác giả đã chứng minh được giả thuyết nghiên cứu phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở nhận diện nguyên nhân của các vấn đề hiện đang tồn tại, xác định vấn đề trọng tâm đó là CSDL những đề tài nghiên cứu khoa học do Nhà nước đảm nhiệm bị đóng quyền truy cập hoàn toàn, chỉ tiết lộ một số thông tin không có giá trị tham khảo, không thể sử dụng để phục vụ học tập, nghiên cứu và đổi mới. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp xây dựng khung đánh giá khả năng truy cập mở đối với nguồn tin KH&CN nhằm phân loại và lập danh sách các đề tài có thể mở quyền truy cập, phục vụ cộng đồng, thúc đẩy hoạt động học tập, nghiên cứu và đổi mới phát triển.
Mỹ Tâm