Bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm Nghêu Bến Tre
Theo Tổng Cục thủy sản, diện tích sản xuất nghêu của Việt Nam năm 2010 khoảng 14.760 ha, đến năm 2019 tăng lên 19.200 ha, tập trung tại các tỉnh/thành ven biển từ Bắc tới Nam (Tiền Hải (tỉnh Thái Bình), Nam Định, Thanh Hóa, Tiền Giang, Bến Tre, Thành phố Hồ Chí Minh…). Sản lượng tăng tương ứng từ 109.250 tấn lên 227.000 tấn. Nghêu của Việt Nam được xuất khẩu sang 42 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó thị trường chính là EU, Mỹ, Trung Quốc…
Mặc dù Việt Nam có nhiều vùng nuôi nghêu nhưng đến năm 2022 mới chỉ có duy nhất “Nghêu Bến Tre” được cấp Chứng nhận MSC (từ năm 2009). Đây là chứng nhận do Hội đồng Quản lý biển (Marine Stewardship Council) cấp cho “một đơn vị nghề cá” khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản tự nhiên. Chứng nhận này có giá trị 5 năm và đã được gia hạn lần thứ 2 đối với “Nghêu Bến Tre” từ năm 2016 - 2021 (Hình 4). Không chỉ ở trong nước, “Nghêu Bến Tre” còn là sản phẩm thủy sản đầu tiên ở Đông Nam Á đạt chứng nhận MSC.
Bến Tre là tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long với hệ thống sông ngòi chằng chịt, có đường bờ biển dài 65 km tạo điều kiện phát triển các loài thủy sản, nhuyễn thể nước lợ và mặn, góp phần hình thành hệ sinh thái đa dạng, phong phú cho địa phương; đặc biệt điều kiện thuận lợi về thổ nhưỡng này thích hợp cho loài nhuyễn thể nghêu sinh sôi nảy nở, phát triển nhanh, mang lại lợi ích kinh tế cao. Dòng triều ra vào ở các cửa sông (các cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên) đã tạo ra hàng chục ngàn bãi bồi tự nhiên, thuận tiện cho nghêu sinh sống và phát triển.

Chính điều kiện thiên nhiên ưu đãi ấy đã tạo ra nhiều lợi thế phát triển kinh tế biển; trong đó nguồn lợi từ con nghêu ở các bãi triều ven biển là một tiềm năng kinh tế biển rất to lớn. Bến Tre cũng là địa phương đứng đầu cả nước về phát triển nghề nuôi nghêu tiềm năng với diện tích đạt 15.000 ha.
Chứng nhận MSC được xem như một giấy thông hành và là điều kiện để mở rộng xuất khẩu nghêu Việt Nam sang các thị trường trên thế giới. Việc duy trì và được tái công nhận MSC đối với nghề nghêu Bến Tre là sự nỗ lực và đồng thuận rất lớn của cộng đồng người dân ba huyện ven biển của Bến Tre là Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú trong việc khai thác và đồng quản lý nghề nghêu Bến Tre.
Để tiếp tục nâng cao giá trị sản phẩm, Cục Sở hữu trí tuệ đã ban hành Quyết định số 438/QĐ-SHTT về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý số 00139 cho sản phẩm "nghêu Bến Tre”. Sở Khoa học và Công nghệ Bến Tre là tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý này. Có 3 sản phẩm từ con nghêu được Sở Khoa học và công nghệ Bến Tre đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý, gồm: nghêu tươi (nghêu sống); nghêu nguyên con hấp chín đông lạnh; thịt nghêu hấp chín đông lạnh.
Nghêu Bến Tre có được đặc thù và danh tiếng như vậy là nhờ điều kiện tự nhiên và kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình nuôi nghêu của người dân địa phương.
Khu vực địa lý là những bãi triều gần cửa sông, địa hình bằng phẳng, không có dòng nước ngọt đổ vào trực tiếp, thời gian triều kiệt trong ngày từ 6 - 8 giờ, tỷ lệ cát trong chất đáy của bãi trên 90%, tỷ lệ bùn dưới 10%, thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn, dồi dào và phong phú các loài sinh vật phù du là nguồn thức ăn quanh năm cho nghêu ở Bến Tre, nhờ đó, thịt nghêu ở Bến Tre có thành phần dinh dưỡng cao.
Bến Tre có chế độ bán nhật triều (2 lần nước lên và 2 lần nước xuống trong ngày) nên thời gian phơi bãi (nước cạn) ngắn, ít bị ảnh hưởng của bão nên nghêu Bến Tre có tình trạng sức khỏe tốt, vân sinh trưởng đều.
Nhiệt độ và độ mặn nước biển tại Bến Tre là 2 yếu tố môi trường sinh thái quan trọng để nghêu tồn tại, sinh trưởng và phát triển tốt. Do Bến Tre không có mùa Đông nên khu vực nuôi không bị biến động nhiệt lớn giữa các ngày trong tháng và giữa các tháng trong năm, độ mặn nước biển tại các bãi nuôi nghêu dao động từ 15-30‰, ít xảy ra tình trạng cực đoan về độ mặn, nhờ đó, nghêu Bến Tre có khả năng sống sót, sinh trưởng và phát triển tốt.
Thành phần cơ giới chất đáy nền bãi nuôi nghêu tại Bến Tre chủ yếu là cát trong khi tàn dư thực vật trên nền đáy không cao do độ che phủ của rừng ngập mặn ở mức trung bình, vì vậy, hàm lượng các chất gốc SO4, CH4 trong thức ăn của nghêu tại bãi nuôi thấp. Yếu tố này góp phần giúp thịt nghêu Bến Tre có mùi thơm, không tanh và hôi như các vùng có tỷ lệ bùn cao trong chất đáy nền.
Nhờ mật độ nuôi nghêu thấp, khai thác bãi nghêu luân phiên (nuôi trong 18 tháng và ngừng nuôi trong 6 tháng) nên bãi nuôi nghêu tại Bến Tre có thời gian phục hồi nguồn thức ăn tự nhiên. Nghêu Bến Tre được thu hoạch thủ công bằng tay, chỉ thu những cá thể đạt kích cỡ thương mại (từ 50-60 con/kg). Vì vậy, “Nghêu Bến Tre” sau thu hoạch có trạng khái khỏe, thịt chắc.
Khu vực địa lý bao gồm: Xã Thạnh Phong, xã Thạnh Hải thuộc huyện Thạnh Phú; xã Thới Thuận, xã Thừa Đức thuộc huyện Bình Đại; xã Bảo Thuận, xã An Thủy, xã Tân Thủy thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Hà Trang
TIN LIÊN QUAN
Tin khác

- Mua giày bảo hộ tại Đồng Nai
- Báo giá giày bảo hộ jogger chính hãng
- In Hòa Hiệp Xưởng in giá rẻ tại TPHCM
- Đệm cao su cao cấp chính hãng